Từ nguyên Kombu

Kombu là một từ mượn từ tiếng Nhật.

Trong tiếng Nhật cổ, rong biển ăn được gọi chung là " me " (xem wakame, arame) và kanji như "布",[2] hoặc "布" [3] được áp dụng để phiên âm từ này. Đặc biệt, kombu được gọi là hirome (từ hiroi, wide) hoặc ebisume (từ <i id="mwfQ">ebisu</i>).[4] Sau đó, tên konfu và kofu xuất hiện lần lượt trong hai phiên bản của Iroha Jirui Shō trong thế kỷ thứ 12 thế kỷ 13.[5]

Các lý thuyết khác nhau đã được tuyên bố cho nguồn gốc của tên kombu, với hai chủ yếu sau đây ngày nay.

Một là nó có nguồn gốc từ On'yomi (cách đọc tiếng Trung-Nhật) của tên tiếng Trung (kūnbù).[6] Bản thân chữ Hán đã có thể được nhìn thấy trong Shōsōin Monjo (thế kỷ thứ 8) và Shoku Nihongi (797) ở Nhật Bản.

Hãy nghĩ về nó đi, Wupu Bencao nói "綸布 (gūanbù), ẩn danh 昆布 (kūnbù)." Sau đó, những thứ gì được nên trong Erya là "(thứ được phát âm là) 綸 giống 綸. Đây là trong kūnbù Biển Đông". The pronouciation of 綸 is 関 (gūan), meaning cord made by blue thread, and got corrupted to 昆 (kūn).

— Lí Thời Trân, Bản thảo cương mục[7]

Một khả năng khác để giải thích sự liên kết phát sinh vì các mô tả về kūnbù trong các tài liệu của Trung Quốc là mơ hồ và không nhất quán, và không thể xác định thuật ngữ nào có thể áp dụng cho rong biển. Chẳng hạn, Chen Cangqi (681-757) lưu ý: "kūnbù được sản xuất ở Biển Đông, lá của nó giống như một bàn tay và kích thước giống như một cây cỏ bạc và một cây sậy, có màu đỏ tím, phần mỏng của lá là rong biển ", tương tự như wakame, arame, Kurome hoặc kajime (Ecklonia cava). Khó khăn là, ít nhất là trong thời gian đó, kombu không được sản xuất ở phương Đông cũng như ở Biển Đông. Hơn nữa, theo Zhang Yxi, Li Shizhen đã phân loại kūnbù và haidai (viết tắt của kombu trong tiếng Trung) là những điều khác nhau, và sự phân loại này vẫn tiếp tục ở Trung Quốc ngày nay.[8]

Khả năng xuất xứ thứ hai là từ có nguồn gốc từ kompu, viết tắt của kombu trong ngôn ngữ Ainu. Kompu trong Ainu khá giống với gūanbù hoặc kūnbù trong tiếng Trung, và có thể suy đoán rằng cái này là một từ mượn từ cái kia.